KỶ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC DƯA HẤU

KỶ THUẬT DƯA HẤU

Dưa hấu (Citrullus lanatus) là một loài thực vật thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae), có giá trị dinh dưỡng và thương mại cao. Ở Việt Nam, diện tích trồng dưa hấu ngày càng tăng, sản xuất dưa hấu mang lại thu nhập cao, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân.

1.Chọn đất và chuẩn bị đất

– Đất trồng dưa nên luân canh với cây trồng khác họ lúa, ngô, cây họ đậu.

– Thu dọn tàn dư cây vụ trước, cày phay tơi nhỏ, nhặt sạch cỏ dại. Lên luống rộng 2,5 – 3 m loại luống đơn, 4,5 – 6 m với luống kép, hình mui luyện. Rãnh rộng 30cm, sâu 25 cm. Hướng luống đông – tây để có nhiều ánh sáng. Xử lý đất bằng vôi bột 300 kg/ha, Vicarben 30 kg/ha để chống sâu xám và nhộng của các loại côn trùng.

Sau khi bón lót, tiến hành phủ màng nông nghiệp. Hướng mặt bạc lên trên, mặt đen xuống dưới để giữ đất tơi xốp, giữ ẩm, ấm cho cây, tránh rửa trôi dinh dưỡng khi mưa to, tránh cỏ dại.

  1. Thời vụ trồng
  2. Các tỉnh phía Bắc

– Vụ xuân hè: Do có mùa đông lạnh nên vụ này là vụ chính. Gieo vào cuối tháng 2, trồng 10 – 15/3, thu hoạch cuối tháng 5.

– Vụ hè: Trồng khi gặt xong lúa chiêm xuân sớm, giữa tháng 6, thu hoạch cuối tháng 7. Thời vụ này thích hợp cho vùng trồng dưa hấu ở Đồng bằng sông Hồng. Nhược điểm của vụ này là mưa nhiều nên các chân đất trũng hay bị ngập. Cần trồng dưa hấu ghép lên gốc bầu để chịu úng và chống bệnh héo vàng.

– Vụ đông: Vụ này nghiêm ngặt về thời gian nên chỉ vùng nào người dân có kinh nghiệm thâm canh mới nên trồng. Gieo hạt cuối tháng 8, trồng đầu tháng 9, thu hoạch cuối tháng 11, đầu tháng 12.

  1. Các tỉnh miền Trung và miền Nam

– Vụ sớm: Gieo trồng tháng 10, thu hoạch cuối tháng 12, trồng trên chân đất thoát nước, do ảnh hưởng mưa đầu vụ.

– Vụ chính: Gieo trồng tháng 11, thu hoạch tết âm lịch. Mùa này cây sinh trưởng thuận lợi, nên năng suất cao.

– Vụ hè: thu hoạch sau tết âm lịch, trồng trên đất sau lúa ở An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và các tỉnh miền Trung.

  1. Kỹ thuật làm vườn ươm

Lượng hạt giống cần dùng cho 1 ha là 0,5 – 1 kg, tùy theo hạt nhỏ, hay hạt to. Ngâm hạt trong nước ấm (2 sôi 3 lạnh) từ 4 – 5 giờ. Vớt hạt rửa sạch hết nhớt. Ủ hạt trong khăn bông 2- 3 ngày ở nhiệt độ 28 – 30 độ C cho nứt nanh. Sau đó đem gieo vào bầu, đặt hạt nằm ngang, rễ quay xuống dưới.

Túi bầu làm bằng plastic đường kính 10 cm, cao 10 – 12 cm, hoặc có thể làn đơn giản bằng lá chuối cuộn. Đất trộn bầu gồm đất, phân chuồng mục, trấu tỉ lệ 6: 4: 1. Sau khi gieo hạt xong lấp lớp đất mỏng phủ hạt, tưới đủ ẩm. Sau 3 ngày cây con mọc, mùa mưa cần che mưa cho cây con, để cây nơi có nhiều nắng cho cây khỏe. Sau mọc 1 tuần vào mùa ấm có thể trồng ra đồng. Vụ xuân sau gieo khoảng 20 ngày có thể trồng được.

* Ghép dưa hấu lên gốc bầu: Dùng giống bầu sao, dễ thích nghi, nhân giống để làm gốc ghép. Gieo hạt bầu vào bầu đất. Khi cây bầu mọc hai lá mầm thì gieo hạt dưa hấu. Hạt dưa hấu gieo trong trấu hoặc cát đãi sạch, lấp lượt trấu hoặc cát dày 2 – 4 cm. Để hạt dưa hấu nơi ít ánh nắng để mầm mọc dài, lá mầm chậm mở. Khi cây bầu có lá thật, cắt phần ngọn bầu sát hai lá mầm từ hôm trước, ba hôm sau cắt vát phần ngọn dưa hấu dài 3 cm, dùng tăm tre cứng, nhỉnh hơn thân dưa hấu cắm vào ngọn bầu, rút tăm tre cắm ngọn dưa hấu vào lỗ ghim vừa rút ra. Nên ghép chỗ kín gió, lúc chiều mát, che cây ghép kín trong 3 – 5 ngày. Khi ngọn dưa hấu liền vào ngọn bầu, để cây chỗ mát, khi cây có 2 lá thật đem trồng (10 – 13 ngày).

4.Lên luống

– Khoảng cách: 2,5 – 3m(luống đơn); 5 – 6m( luống đôi ) / rộng 0,6 – 0,8 m

– Rãnh : S 40 (cm)×R 40(cm); khoảng cách cây: 0,5-0,6 m.

 

5.Phân bón

– Bón lót 1: Phân chuồng hoai mục : 400-500 (kg) + Vôi: 100(kg) + Sicamax10(kg)

– Bón lót 2:  Lân 40(kg) + NPK  15(kg) + ADP 3(kg)

– Bón thúc  1(15-20 ngày): NPK 15 (kg) + ADP 2 (kg) +Sicamax 10(kg) +  Vi Sinh

– Bón Thúc 2 ( 30-35 ngày):  NPK 20 (kg)  + Sicamax 5 (kg) + KCL 5( kg)

– Bón Thúc 3 ( 45-50 ngày ):  NPK  10 (kg) + KCL 3 (kg)

* Tưới gốc:

– Lần 1( 3 ngày SG): Zinphosphil  250 (ml)/ 200 l

– Lần 2(12 ngày SG):  Zinphosphil 250ml/200 l

– Lần 3 ( 17 ngày SG) : NPK 2kg + 200ml Milamic / 200 l

– Lần 4( 22 ngày SG) : NPK 4 kg + Phosphika 200ml/ 200 l

– Lần 5 ( 25 ngày SG) NPK 4 kg + Phosphika 200ml/ 200 l

– Lần 6, 7( 32, 40 ngày SG) : NPK(16-16-8) 5 kg + NPK(15-15-15) 1 kg /200 l

* Phun lá:

– Lần 1 ( 5 ngày SG): Milalus 25ml/ 20 l

– Lần 2: ( 12 ngày SG- sau khi bón ngọn):  Milalus  25ml +  Aminoflowing 30ml/20l

– Lần 3(22 ngày SG): Silita  25ml/ 20l

– Lần 4(40 ngày SG) : Milus 10 ml + Aminoflowing 25ml / 20l

-Lần 5,6( trước thu hoạch 10, 3 ngày): phun Phosphika 30ml + Katesil 25ml/20 l nước.

 

  1. 6. Bấm ngọn

– Lần 1: Sau khi cây có từ 4-5 lá thật

– Lần 2: Sau khi  tuyển quả khoảng 1 tuần ( quả bằng bóng đèn). Tiến hành bấm ngọn cách quả khoảng  5-6 lá, cắt tỉa các cành phụ.

  1. 7. Thụ Phấn bổ sung

– Thời gian: 6-9h sáng, trong vòng 5-6 ngày  – Sau khi gieo hạt khoảng 35-40 ngày

-Thời điểm:  khi tỉ lệ nụ hoa cái thứ 3 trên thân chính đạt 70% và nụ hoa cái thứ 2 trên dây nhánh đạt 30%.

8.Lựa chọn quả

– Thời gian: 40-45 ngày sau gieo.

Thời điểm: khi quả bằng quả chanh, lựa chọn những quả phát triển tốt, thường giữ 1-2 quả/ cây

-Vị trí: Dây chính( quả thứ 3 – vị trí lá 14–20); dây nhánh ( quả thứ 2 – vị trí lá từ 8-14).

 

  1. 9. Phòng trừ sâu bệnh

9.1. Bệnh chết cây con (Bệnh lở cổ rễ, bệnh thối gốc)

– Do nấm Rhizoctonia solani

– Nấm xâm nhập vào cổ rễ cây con làm thối cổ rễ, cổ rễ teo nhỏ lại, vết bệnh màu nâu đen, lá vẫn còn xanh sau héo

dần, cây ngã ngang và chết.

– Bệnh thường phát sinh gây hại từ khi cây mới mọc đến khi  có 1-2 lá thật.

Phòng trị (Phun thuốc ướt đẫm vào gốc cây con) : Hexca 180SC, Dasuwang 30EC(20ml/16l; 2 bình/1000 m2).

 

9.2.Bệnh phấn trắng

– Do nấm Sphaerotheca fuliginea

– Vết bệnh lúc đầu là những đốm nhỏ màu xanh xám, sau lớn lên không có hình dạng rõ rệt, trên mặt vết bệnh có lớp phấn trắng xám và có các hạt nhỏ màu đen. Lá bị bệnh sớm vàng, khô và rụng.

Phòng trị Phun thuốc ngừa hoặc khi bệnh chớm xuất hiện : manduri, duruda, hexin 5SC, byphan 800WP.

 

 

 

9.3. Bệnh nứt thân chảy nhựa (Bệnh bả trầu, bệnh chạy dây, đốm lá)

– Do nấm Mycosphaerella melonis. Bênh gây hại chủ yếu trên thân

-Trên thân: kích thước 1-2 cm, vết bệnh hơi lõm, làm khuyết một bên thân hay nhánh, nhựa màu nâu đỏ ứa ra thành giọt, sau đổi thành màu nâu sẫm và khô cứng lại. Bệnh nặng làm thân cây bị nứt thành vệt dài và chảy nhựa nhiều hơn, trên đó có những hạt nhỏ màu đen.  Phòng trị(Phun ướt đẫm cây dưa và gốc):

Happyend 300EC : 15-16 ml/bình 16 lít; 2 bình cho 1000 m2

By phan:

9.4. Bệnh thán thư (Bệnh đén)

– Do nấm Colletotrichum lagenarium gây ra.

– Thời điểm: khi cây dưa đã lớn đến thu hoạch, chủ yếu treenlas, quả, thân.

– Biểu hiện: vết bệnh lúc đầu hình tròn nhỏ, màu xanh xám,  sau lớn lên, xung quanh màu nâu vàng, giữa vết bệnh màu nâu đậm hơn và có các đường vòng đồng tâm. Trên trái, đốm bệnh tròn, úng nước, màu nâu đen đến đen, lõm vào vỏ.

Phòng trị : Từ khi cây có 5-6 lá thật, phun phòng bệnh 2-3 lần hoặc khi bệnh chớm xuất hiện bằng các thuốc như bệnh nứt thân chảy mũ.

 

9.5. Bệnh đốm phấn (Bệnh sương mai, bệnh mốc sương)

– Do nấm Pseudoperospora cubensis.

– Vết bệnh điển hình trên lá hình đa giác, có góc cạnh rõ, lúc đầu màu vàng nhạt, sau chuyển sang màu nâu. Sáng sớm quan sát kỹ mặt dưới lá chỗ vết bệnh có lớp tơ nấm màu trắng hoặc vàng nhạt.

Phòng trị :

– Phun thuốc phòng từ khi cây có 5-6 lá thật hoặc khi bệnh mới phát sinh :

+ Manduri: 5-10ml/bình 8 lít, Duruda: 50 g/bình 20 lít; 2 bình/1000m2.

 

 

9.6. Bệnh héo vàng (Bệnh héo rũ, thối rễ)

– Do nấm Fusarium oxysporium gây ra.

– Rễ bị thối đen. Cây héo từng phần xảy ra trong vài ngày rồi lan ra cả cây, làm cây chết. cây sinh trưởng kém, các lá biến vàng từ gốc trở lên. Mạch dẫn bên trong bị thâm đen

Phòng trị: Phun lên cây và tưới vào gốc 7-10 ngày/lần để ngừa hoặc khi mới chớm bệnh: manduri 25SC,  biorosamil 72WP :

 

 

 

9.7. Bệnh héo xanh (Bệnh héo vi khuẩn)

– Do vi khuẩn Pseudomonas solanacearum

– Triệu chứng dễ thấy là cây đang sinh trưởng bình thường thì đột ngột bị héo rũ trong khi các lá vẫn còn xanh.Ban ngày khi trời nắng cây héo, ban đêm cây xanh lại, sau 2-3 ngày cây không hồi phục nữa và chết. Các mạch dẫn bị nâu đen, ấn mạnh vào chỗ gần mặt cắt sẽ tiết ra chất dịch vi khuẩn màu trắng đục.

Phòng trị : Phun hoặc tưới gốc định kỳ ngừa bệnh bằng thuốc BN-COPPER CIDE  và kasugamycin

 

9.8. Bệnh khảm

– Do virus cucumber mosaic.

– Ngọn bị chùn lại, đọt non  có các đốm vô định hình, lá bị loang lỗ, thường xảy ra giai đoạn sinh trưởng

– Phòng trị: sử dụng byeray 250WP để phòng trừ rầy rệp chích hút.

 

 

 

 

 

Trả lời